Pàli, Phạn : Ànanda.
Dịch ý : Khánh Hỉ, Hoan Hỉ, Vô Nhiễm.
Đệ tử đa văn bậc nhất và là em chú bác của Phật.
Sau khi xuất gia khoảng hơn 20 năm. Tôn giả được làm thị giả Đức Phật. Vì tôn giả nhớ rõ ràng và tụng rành mạch giáo pháp Phật giảng nói, nên được khen là Ða văn đệ nhất.
Ngài A-nan có dung mạo rất khôi ngô, mặt như trăng tròn, mắt như hoa sen xanh, thân trắng mịn như gương sáng, nên tuy đã xuất gia nhưng vẫn nhiều lần bị phụ nữ cám dỗ. Dù vậy nhưng nhờ có ý chí vững bền, nên cuối cùng A-nan cũng bảo toàn được phạm hạnh.
Khi Đức Phật còn tại thế, A-nan chưa khai ngộ. Khi Phật nhập diệt, ông buồn bã khóc lóc. Sau đó được ngài Ma-ha Ca-diếp dạy bảo, tôn giả cố gắng dụng công nên được khai ngộ. Trong hội kết tập kinh điển lần thứ nhất, tôn giả được chọn làm người tụng lại văn kinh, đối với việc truyền đạt và giữ gìn kinh pháp, tôn giả có công đức rất lớn.
Dì của Phật là bà Ma-ha-ba-xà-ba-đề muốn gia nhập giáo đoàn, lúc đầu nhờ A-nan phân giải, cuối cùng được Phật chấp thuận, cho nên tôn giả có công rất lớn đối với việc thành lập giáo đoàn Tỳ-kheo-ni.
Theo Phó Pháp Tạng Nhân Duyên Truyện 2, Đức Phật truyền pháp cho ngài Ma-ha Ca-diếp làm sơ tổ, ngài Ma-ha Ca-diếp truyền cho ngài A-nan làm vị tổ thứ hai.
Sau khi Phật nhập diệt từ 20 đến 25 năm, tôn giả A-nan truyền pháp cho ngài Thương-na-hòa-tu rồi thị tịch ở khoảng giữa sông Hằng.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét