Thứ Bảy, 30 tháng 7, 2016

A Dục Vương


    Phạn : Asoka - Pàli : Asoka.
    Cũng gọi : A-du-ca, A-du-già, A-nộ-già, A-thú-khả, A-thúc.
    Dịch ý: Vô ưu Vương.
    Còn có tên Thiên Ái Hỉ Kiến Vương (Phạn : Devànampriya priyadrasì).
    Vị vua thứ ba của vương triều Khổng Tước ở nước Ma-kiệt-đà thuộc Trung Ấn Độ.
    Ông ra đời khoảng thế kỉ thứ III trước Tây lịch, là vị vua thống nhất Ấn Độ và là một nhân vật đóng góp công sức lớn nhất trong việc hộ trì Phật giáo.
    Ông nội của ông là Đại vương Candragupta (Chiên-đà-la-cấp-đa), Tổ khai sáng vương triều Khổng Tước; cha ông là vua Bindusàra (Tân-đầu-sa-la), mẹ ông là Asokàvadàna (A-dục-vi-đạt-na), con gái của một vị Bà- la-môn ở thành Thiệm-ba.
    Lúc nhỏ, nhà vua rất hung bạo, không được vua cha yêu mến. Khi nước Takasasila (Ðức-xoa-thi-la) làm phản, phụ vương sai ông đi dẹp loạn, với  ý muốn ông  chết trong chiến trận. Nhưng A-dục lại bình định được quân phản loạn, quyền uy vang lừng. Sau khi phụ vương băng hà, ông giết chết anh em mình rồi lên ngôi.
    Có thuyết cho rằng A-dục giết 99 người anh em, sau khi ông lên ngôi vẫn còn hung bạo, giết đại thần và phụ nữ, xây lao ngục, tàn hại nhân dân vô tội, do đó bị gọi là Chiên-đà A-dục Vương (Phạn : Candàzoka). Trong Ấn Độ Phật Giáo Sử của Ða-la-na-tha gọi ông là Kàmàsoka (Ái-dục A-dục). Nhưng chương 4, 5 và 6 trong chỉ dụ khắc trên vách đá lớn, chương 7 trong chỉ dụ khắc trên trụ đá và trong chỉ dụ của hoàng hậu đều chép rằng : Thời gian vua A-dục trị vì, còn có anh em, chị em. Thế nên truyền thuyết rằng vua A-dục giết hết anh em có thể do đời sau thêm vào.
    Vua lấy thành Hoa Thị làm thủ đô, phạm vi thống trị bao cả toàn bộ Bắc Ấn Độ và một nửa Ðại Hạ, phía Nam đến Án-đạt-la, phía Đông đến bờ biển, dọc ngang mỗi chiều vài nghìn dặm. Nhà vua còn thi hành chính sách thích hợp với quần chúng, ưa chuộng chân lí, giàu tinh thần bác ái, quả là từ khi Ấn Độ có lịch sử cho đến nay, ông là nhà vua thống trị có thành tích to lớn từ trước chưa từng có.
    Năm tháng và nhân duyên vua qui y Phật, các kinh, luật đều ghi chép khác nhau:
    Theo Truyện A-dục Vương 1, do thấy kỳ tích của Hải Tỳ-kheo (Phạn : Samudra) nên nhà vua qui y Phật.
    Theo chương 6 trong Ðảo Sử và Thiện Kiến Luật Tì-bà-sa 1, vua quy y Phật nhờ sự cảm hóa của ngài Nigrodha.
    Theo chương 6 trong Ấn Độ Phật Giáo Sử của ngài Da-la-na-tha, do sự tích lạ của đệ tử ngài A-la-hán Da-xá (Phạn :Yasa) mà vua qui y Phật.
    Theo lời văn trong chỉ dụ khắc trên vách đá nhỏ thì sau khi qui y Phật, trong hơn hai năm rưỡi, tuy là ưu-bà-tắc mà vua không dốc lòng tin Phật, hơn một năm sau đó, vua mới thân cận chư tăng và nhiệt tâm tu hành.
    Tổng hợp và khảo sát đoạn văn trên với câu “Quán đảnh lên ngôi hơn mười năm thì đến với tam-bồ-đề” trong chương 8 của chỉ dụ khắc trên vách đá lớn, ta thấy  vua trở thành ưu-bà-tắc vào khoảng năm thứ bảy sau khi lên ngôi. Nhưng chương 6 trong Ðảo Sử ghi : "Sau khi lên ngôi ba năm, vua qui y Phật".
    Theo chương 13 của chỉ dụ khắc trên vách đá lớn. Sau khi lên ngôi tám năm, vua chinh phục Kalinga, thấy cảnh giết chóc, tâm vua bị kích động mạnh, nhờ đó tín tâm đối với Phật giáo càng thêm kiên cố. Vì thế, vua bãi bỏ việc dùng binh lực để mưu cầu thống nhất và với niềm tin vững chắc rằng : “Thắng lợi bằng chính pháp là sự thắng lợi cao hơn hết” (chương 13 trong chỉ dụ khắc trên vách đá lớn), vua hết lòng khen ngợi sự truyền bá Phật giáo. Do đó, nửa đời còn lại của vua được gọi là Ðạt-ma A-dục Vương ( Dharmàsoka- Vua A-dục chính pháp).
    Theo truyền thuyết, vua cho xây 84.000 ngôi chùa và 84.000 tháp Phật khắp trong nước. Các việc này đều có ghi trong chương 6 của Ðảo Sử, Thiện Kiến Luật Tì-bà-sa 1, kinh Tạp A-hàm 23, Truyện A-dục Vương 1, nhưng trong chỉ dụ của vua thì không thấy có ghi.
    Theo Thiện Kiến Luật Tì-bà-sa 2, vua lên ngôi 17 năm thì tổ chức kết tập kinh điển lần thứ ba tại thành Hoa Thị, tôn ngài Mục-kiền-liên-tử Đế-tu (Pàli : Mog-galiputta-tissa) làm Thuợng tọa, có 1.000 vị trưởng lão tham dự, suốt thời gian 9 tháng mới hoàn tất.
    Kế tiếp, nhà vua phái các vị sau đây đến các nước để truyền đạo :
    -  Majjhantika đến nước Kasmìra (Kế tân) và nước Gandhàra (Kiện-đà-la).
    -  Mahàdeva đến nước Mahisakamandala (Ma-hê-sa-mạn-đà-la).
    -  Rakkhita đến nước Vanavàsi (Bà-na-bà-tu).
    -  Yonaka-dhammarakkhita (Ðàm Vô Đức) đến nước Mahà-rattha (Ma-ha-lặc-tha).
    -  Mahàrakkhita đến nước Yonaka-loka (Du-na thế-giới).
    -  Majjhima đến nước Himavantapadesa (Tuyết Sơn Biên).
    -  Sonaka và Uttara đến nước Suvannabhùmi (Kim Địa).
    -  Mahinda, Sambala và Baddasàla đến nước Tam-bapannidìpa (Sư Tử).
    Vùng truyền bá chánh pháp xa đến Syrie, Ai Cập, Macedone, Cyrene.
   
    Truyền thuyết lần kết tập thứ ba, truyện A-dục Vương do phương Bắc truyền hoàn toàn không có ghi điều này. Luận Ðại Trí Độ 2 tuy có nói (Ðại 25,70 thượng) tuy có ghi : “Vua A-du-ca mở đại hội Ban-xà-vu-sắt, trong đó các vị đại luận sư bàn luận khác nhau nên có tên là Biệt-bộ”. Nhưng việc này cũng không thể gán cho ý nghĩa kết tập. Cho nên truyền thuyết về kỳ kết tập kinh điển lần thứ ba, có thể nói là chưa rõ sự thật.
   
    Niên đại vua ra đời, từ trước đến nay có nhiều thuyết khác nhau : Chương 13 trong chỉ dụ khắc trên vách đá lớn có câu : "Các vua của 5 vương quốc ở Hi Lạp tại vị  cùng niên đại với vua vào năm 261 trước Tây lịch, hoặc từ năm 272 đến năm 258 trước Tây lịch". Do đó, Quán Đảnh lên ngôi được đoán là khoảng năm 270 trước Tây lịch.
    Từ khi Phật nhập diệt đến lúc vua A-dục ra đời, kinh Tạp A-hàm 23 (Bắc truyền), phẩm A-du-ca Thí Thổ trong kinh Hiền Ngu 3, Tăng-già-la-sát Sở Tập kinh, hạ; kinh Tạp Thí Dụ, thuợng; Ðại Trang Nghiêm Luận Kinh 10, luận Ðại Trí Độ 2 ghi : "Vua A-dục ra đời sau Đức Phật nhập diệt 100 năm". Luận Dị Bộ Tông Luân ghi : "Vua A-dục ra đời sau Đức Phật nhập diệt hơn 100 năm. Thập Bát Bộ Luận và Bộ Chấp Dị Luận ghi : "Vua A-dục ra đời sau Đức Phật nhập diệt 116 năm". Chương 6 trong Ðảo Sử và Thiện Kiến Luật Tì-bà-sa 2 ghi : "Vua lên ngôi sau khi Đức Phật nhập diệt 218 năm, còn Phật nhập diệt khoảng 100 năm, có Ca-la A-dục Vương (Kàlàsoka) tại vị". Tây Tạng Văn Vu Điền Huyền Kí (Lihi-yullun-bstan-pa) ghi : "Sau Phật nhập diệt 234 năm, có Ðạt-ma A-dục Vương". Chương 5 trong Ðảo Sử ghi : "Vua A-dục trị vì 37 năm".

Related Posts:

  • A Dục Vương     Phạn : Asoka - Pàli : Asoka.     Cũng gọi : A-du-ca, A-du-già, A-nộ-già, A-thú-khả, A-thúc.     Dịch ý: Vô ưu Vương.     Còn có tên Thiên Ái Hỉ Kiến Vương (… Read More

0 nhận xét:

Đăng nhận xét