Chủ Nhật, 31 tháng 7, 2016

A Nan cụ bát pháp


     A-nan có đủ 8 pháp.
    Theo kinh Niết-bàn 40 (bản Bắc), Đức Phật nói với bồ-tát Văn-thù-sư-lợi rằng A-nan đầy đủ 8 pháp, có khả năng thụ trì 12 loại kinh (12 phần giáo), nên gọi A-nan là Ða Văn Tạng. Tám pháp là :
    1. Tín căn bền vững : "Tín" là tín thuận; "Căn" là năng sinh, nghĩa là khi nghe 12 thể loại kinh do Như Lai nói, A-nan tin nhận bền vững. từ đó sinh trưởng tất cả công đức, pháp lành.
    2. Tâm tính chất trực : "Chất" là chất phác, nghĩa là sau khi nghe 12 thể loại kinh, tâm A-nan trở nên chất trực, thường an trụ trong chánh pháp, lìa hẳn các kiến chấp hư vọng.
    3. Thân không bệnh khổ :  A-nan đã huân tu nhiều kiếp, hạnh lành lợi tha không thể lường được, nên thân không có bệnh khổ.
    4. Thường siêng tinh tấn : Không hổn tạp là tinh, không gián đoạn là tấn, nghĩa là sau khi nghe 12 thể loại kinh, A-nan nhất tâm thụ trì, như pháp tu tập chứ không lười nhác.
    5. Đầy đủ niệm tâm : Sau khi nghe 12 thể loại kinh, tâm A-nan thường ghi nhớ tư duy, không để quên sót.
    6. Tâm không kiêu mạn : Sau khi nghe 12 thể loại kinh, A-nan ghi nhớ tất cả, tâm không buông lung, cũng không kiêu mạn với đại chúng.
    7. Thành tựu định ý : Sau khi nghe 12 thể loại kinh, A-nan y theo chánh pháp tu nhiếp tâm mình mà thành tựu Thiền định.
    8. Từ nghe sinh trí : Sau khi nghe 12 thể loại kinh, A-nan đối với nghĩa lý vô lượng, trí tuệ lại sáng hơn bao giờ hết, không điều gì không rõ thấu.
    Ngoài ra, vì A-nan là đệ tử thường theo hầu bên cạnh Đức Phật, lại có đầy đủ 8  pháp nên đời sau, trong các tòng lâm dùng 8 pháp này để làm tiêu chuẩn cho những vị có trách nhiệm thị giả.

Thứ Bảy, 30 tháng 7, 2016

A Nan

     Pàli, Phạn : Ànanda.
    Dịch ý : Khánh Hỉ, Hoan Hỉ, Vô Nhiễm.
    Đệ tử đa văn bậc nhất và là em chú bác của Phật.
    Sau khi xuất gia khoảng hơn 20 năm. Tôn giả được làm thị giả Đức Phật. Vì tôn giả nhớ rõ ràng và tụng rành mạch giáo pháp Phật giảng nói, nên được khen là Ða văn đệ nhất.
    Ngài A-nan có dung mạo rất khôi ngô, mặt như trăng tròn, mắt như hoa sen xanh, thân trắng mịn như gương sáng, nên tuy đã xuất gia nhưng vẫn nhiều lần bị phụ nữ cám dỗ. Dù vậy nhưng nhờ có ý chí vững bền, nên cuối cùng A-nan cũng bảo toàn được phạm hạnh.
    Khi Đức Phật còn tại thế, A-nan chưa khai ngộ. Khi Phật nhập diệt, ông buồn bã khóc lóc. Sau đó được ngài Ma-ha Ca-diếp dạy bảo, tôn giả cố gắng dụng công nên được khai ngộ. Trong hội kết tập kinh điển lần thứ nhất, tôn giả được chọn làm người tụng lại văn kinh, đối với việc truyền đạt và giữ gìn kinh pháp, tôn giả có công đức rất lớn.
    Dì của Phật là bà Ma-ha-ba-xà-ba-đề muốn gia nhập giáo đoàn, lúc đầu nhờ A-nan phân giải, cuối cùng được Phật chấp thuận, cho nên tôn giả có công rất lớn đối với việc thành lập giáo đoàn Tỳ-kheo-ni.
    Theo Phó Pháp Tạng Nhân Duyên Truyện 2, Đức Phật truyền pháp cho ngài Ma-ha Ca-diếp làm sơ tổ, ngài Ma-ha Ca-diếp truyền cho ngài A-nan làm vị tổ thứ hai.
    Sau khi Phật nhập diệt từ 20 đến 25 năm, tôn giả A-nan truyền pháp cho ngài Thương-na-hòa-tu rồi thị tịch ở khoảng giữa sông Hằng.

A Dục Vương thạch trụ

Một mảnh đá của Thạch trụ khắc văn thứ 6 của A-dục vương, được viết bằng Chữ Phạn cổ. (Bảo tàng Anh quốc)
            Trụ đá hình tròn do vua A-dục thuộc triều vua Khổng tuớc, cổ Ấn Độ, kiến lập ở lưu vực sông Hằng vào thế kỉ  III trước Tây lịch, để khắc chỉ dụ (Phạn : Dharma-dipi, Pàli : Dhamma-lipi). Ðến nay có 10 trụ đã được phát hiện. Trong số ấy, có 6 trụ cao từ 10-13 mét. Nội dung của chỉ dụ gồm có 6 chương : Tôn trọng Phật pháp, khuyên làm các việc lành, đoạn trừ các điều ác, cấm sát sinh, nhân từ bình đẳng, làm phước lợi cho người. Ngoài ra, trên các trụ đá đều có ghi sự tích vua A-dục.
            Bốn trụ đá còn lại cao khoảng bảy mét rưỡi. Nội dung chỉ dụ khắc trên bốn trụ này khác nhau, đại khái là cấm phá hòa hợp Tăng và ghi lại những việc chính vua A-dục đi đảnh lễ các Phật tích. Trên đầu trụ đá có chạm hình các loài thú như tượng sư tử. Tuy đã lâu năm, nhưng đến nay chúng vẫn còn có thể phân biệt được rõ ràng. Niên đại của Ấn Độ được khắc trên các trụ đá đuợc giới học thuật xem trọng.

A Dục Vương


    Phạn : Asoka - Pàli : Asoka.
    Cũng gọi : A-du-ca, A-du-già, A-nộ-già, A-thú-khả, A-thúc.
    Dịch ý: Vô ưu Vương.
    Còn có tên Thiên Ái Hỉ Kiến Vương (Phạn : Devànampriya priyadrasì).
    Vị vua thứ ba của vương triều Khổng Tước ở nước Ma-kiệt-đà thuộc Trung Ấn Độ.
    Ông ra đời khoảng thế kỉ thứ III trước Tây lịch, là vị vua thống nhất Ấn Độ và là một nhân vật đóng góp công sức lớn nhất trong việc hộ trì Phật giáo.
    Ông nội của ông là Đại vương Candragupta (Chiên-đà-la-cấp-đa), Tổ khai sáng vương triều Khổng Tước; cha ông là vua Bindusàra (Tân-đầu-sa-la), mẹ ông là Asokàvadàna (A-dục-vi-đạt-na), con gái của một vị Bà- la-môn ở thành Thiệm-ba.
    Lúc nhỏ, nhà vua rất hung bạo, không được vua cha yêu mến. Khi nước Takasasila (Ðức-xoa-thi-la) làm phản, phụ vương sai ông đi dẹp loạn, với  ý muốn ông  chết trong chiến trận. Nhưng A-dục lại bình định được quân phản loạn, quyền uy vang lừng. Sau khi phụ vương băng hà, ông giết chết anh em mình rồi lên ngôi.
    Có thuyết cho rằng A-dục giết 99 người anh em, sau khi ông lên ngôi vẫn còn hung bạo, giết đại thần và phụ nữ, xây lao ngục, tàn hại nhân dân vô tội, do đó bị gọi là Chiên-đà A-dục Vương (Phạn : Candàzoka). Trong Ấn Độ Phật Giáo Sử của Ða-la-na-tha gọi ông là Kàmàsoka (Ái-dục A-dục). Nhưng chương 4, 5 và 6 trong chỉ dụ khắc trên vách đá lớn, chương 7 trong chỉ dụ khắc trên trụ đá và trong chỉ dụ của hoàng hậu đều chép rằng : Thời gian vua A-dục trị vì, còn có anh em, chị em. Thế nên truyền thuyết rằng vua A-dục giết hết anh em có thể do đời sau thêm vào.
    Vua lấy thành Hoa Thị làm thủ đô, phạm vi thống trị bao cả toàn bộ Bắc Ấn Độ và một nửa Ðại Hạ, phía Nam đến Án-đạt-la, phía Đông đến bờ biển, dọc ngang mỗi chiều vài nghìn dặm. Nhà vua còn thi hành chính sách thích hợp với quần chúng, ưa chuộng chân lí, giàu tinh thần bác ái, quả là từ khi Ấn Độ có lịch sử cho đến nay, ông là nhà vua thống trị có thành tích to lớn từ trước chưa từng có.
    Năm tháng và nhân duyên vua qui y Phật, các kinh, luật đều ghi chép khác nhau:
    Theo Truyện A-dục Vương 1, do thấy kỳ tích của Hải Tỳ-kheo (Phạn : Samudra) nên nhà vua qui y Phật.
    Theo chương 6 trong Ðảo Sử và Thiện Kiến Luật Tì-bà-sa 1, vua quy y Phật nhờ sự cảm hóa của ngài Nigrodha.
    Theo chương 6 trong Ấn Độ Phật Giáo Sử của ngài Da-la-na-tha, do sự tích lạ của đệ tử ngài A-la-hán Da-xá (Phạn :Yasa) mà vua qui y Phật.
    Theo lời văn trong chỉ dụ khắc trên vách đá nhỏ thì sau khi qui y Phật, trong hơn hai năm rưỡi, tuy là ưu-bà-tắc mà vua không dốc lòng tin Phật, hơn một năm sau đó, vua mới thân cận chư tăng và nhiệt tâm tu hành.
    Tổng hợp và khảo sát đoạn văn trên với câu “Quán đảnh lên ngôi hơn mười năm thì đến với tam-bồ-đề” trong chương 8 của chỉ dụ khắc trên vách đá lớn, ta thấy  vua trở thành ưu-bà-tắc vào khoảng năm thứ bảy sau khi lên ngôi. Nhưng chương 6 trong Ðảo Sử ghi : "Sau khi lên ngôi ba năm, vua qui y Phật".
    Theo chương 13 của chỉ dụ khắc trên vách đá lớn. Sau khi lên ngôi tám năm, vua chinh phục Kalinga, thấy cảnh giết chóc, tâm vua bị kích động mạnh, nhờ đó tín tâm đối với Phật giáo càng thêm kiên cố. Vì thế, vua bãi bỏ việc dùng binh lực để mưu cầu thống nhất và với niềm tin vững chắc rằng : “Thắng lợi bằng chính pháp là sự thắng lợi cao hơn hết” (chương 13 trong chỉ dụ khắc trên vách đá lớn), vua hết lòng khen ngợi sự truyền bá Phật giáo. Do đó, nửa đời còn lại của vua được gọi là Ðạt-ma A-dục Vương ( Dharmàsoka- Vua A-dục chính pháp).
    Theo truyền thuyết, vua cho xây 84.000 ngôi chùa và 84.000 tháp Phật khắp trong nước. Các việc này đều có ghi trong chương 6 của Ðảo Sử, Thiện Kiến Luật Tì-bà-sa 1, kinh Tạp A-hàm 23, Truyện A-dục Vương 1, nhưng trong chỉ dụ của vua thì không thấy có ghi.
    Theo Thiện Kiến Luật Tì-bà-sa 2, vua lên ngôi 17 năm thì tổ chức kết tập kinh điển lần thứ ba tại thành Hoa Thị, tôn ngài Mục-kiền-liên-tử Đế-tu (Pàli : Mog-galiputta-tissa) làm Thuợng tọa, có 1.000 vị trưởng lão tham dự, suốt thời gian 9 tháng mới hoàn tất.
    Kế tiếp, nhà vua phái các vị sau đây đến các nước để truyền đạo :
    -  Majjhantika đến nước Kasmìra (Kế tân) và nước Gandhàra (Kiện-đà-la).
    -  Mahàdeva đến nước Mahisakamandala (Ma-hê-sa-mạn-đà-la).
    -  Rakkhita đến nước Vanavàsi (Bà-na-bà-tu).
    -  Yonaka-dhammarakkhita (Ðàm Vô Đức) đến nước Mahà-rattha (Ma-ha-lặc-tha).
    -  Mahàrakkhita đến nước Yonaka-loka (Du-na thế-giới).
    -  Majjhima đến nước Himavantapadesa (Tuyết Sơn Biên).
    -  Sonaka và Uttara đến nước Suvannabhùmi (Kim Địa).
    -  Mahinda, Sambala và Baddasàla đến nước Tam-bapannidìpa (Sư Tử).
    Vùng truyền bá chánh pháp xa đến Syrie, Ai Cập, Macedone, Cyrene.
   
    Truyền thuyết lần kết tập thứ ba, truyện A-dục Vương do phương Bắc truyền hoàn toàn không có ghi điều này. Luận Ðại Trí Độ 2 tuy có nói (Ðại 25,70 thượng) tuy có ghi : “Vua A-du-ca mở đại hội Ban-xà-vu-sắt, trong đó các vị đại luận sư bàn luận khác nhau nên có tên là Biệt-bộ”. Nhưng việc này cũng không thể gán cho ý nghĩa kết tập. Cho nên truyền thuyết về kỳ kết tập kinh điển lần thứ ba, có thể nói là chưa rõ sự thật.
   
    Niên đại vua ra đời, từ trước đến nay có nhiều thuyết khác nhau : Chương 13 trong chỉ dụ khắc trên vách đá lớn có câu : "Các vua của 5 vương quốc ở Hi Lạp tại vị  cùng niên đại với vua vào năm 261 trước Tây lịch, hoặc từ năm 272 đến năm 258 trước Tây lịch". Do đó, Quán Đảnh lên ngôi được đoán là khoảng năm 270 trước Tây lịch.
    Từ khi Phật nhập diệt đến lúc vua A-dục ra đời, kinh Tạp A-hàm 23 (Bắc truyền), phẩm A-du-ca Thí Thổ trong kinh Hiền Ngu 3, Tăng-già-la-sát Sở Tập kinh, hạ; kinh Tạp Thí Dụ, thuợng; Ðại Trang Nghiêm Luận Kinh 10, luận Ðại Trí Độ 2 ghi : "Vua A-dục ra đời sau Đức Phật nhập diệt 100 năm". Luận Dị Bộ Tông Luân ghi : "Vua A-dục ra đời sau Đức Phật nhập diệt hơn 100 năm. Thập Bát Bộ Luận và Bộ Chấp Dị Luận ghi : "Vua A-dục ra đời sau Đức Phật nhập diệt 116 năm". Chương 6 trong Ðảo Sử và Thiện Kiến Luật Tì-bà-sa 2 ghi : "Vua lên ngôi sau khi Đức Phật nhập diệt 218 năm, còn Phật nhập diệt khoảng 100 năm, có Ca-la A-dục Vương (Kàlàsoka) tại vị". Tây Tạng Văn Vu Điền Huyền Kí (Lihi-yullun-bstan-pa) ghi : "Sau Phật nhập diệt 234 năm, có Ðạt-ma A-dục Vương". Chương 5 trong Ðảo Sử ghi : "Vua A-dục trị vì 37 năm".

A du ca thụ


    A-du-ca (Phạn : Asoka).
    Dịch ý : Vô Ưu thụ.
    Cũng gọi : A-thúc-ca thụ, A-thư-ca thụ.
    Tên khoa học: Jonesia asoka Roxb.
    Loài thực vật thuộc họ đậu, thường sống ở Hymalaya, Tích Lan, bán đảo Mã Lai.
    Thân cây thẳng đứng, lá như lá hòe, mọc đối giống như cánh chim, dài từ 9cm đến 20cm, hoa nở dài khoảng 6cm đến 10cm, màu đỏ tươi, trái hình bầu dục, dài khoảng 20cm. Văn học Ấn Độ thường cho cây này là điềm lành. Theo truyền thuyết, Thái-tử Tất-đạt-đa sinh ra duới cội cây A-du-ca trong vườn Lâm-tì-ni, vì mẹ con đều an ổn, nên cây này được gọi là cây Vô ưu.
    Thông thường, nguời ta lầm, cho cây Tất-lợi-xoa (Phạn : Vrksa, cây bồ-đề) là cây A-du-ca.

A Di Đà Tam tôn


    Cũng gọi : Tây phương tam thánh.
    Chỉ cho Đức Phật A-di-đà và hai vị Đại Bồ-tát đứng hầu hai bên Ngài, bên trái là bồ-tát Quan Âm, bên phải là bồ-tát Ðại Thế Chí.
    Tượng A-di-đà Tam Tôn bắt nguồn từ Ấn Độ. Bức bích họa thuộc hang động thứ 9 ở A-chiên-đa, nơi di phẩm tượng tam tôn được bảo tồn. Tượng A-di-đà tam tôn có sớm nhất ở Trung Quốc là tượng tam tôn được điêu khắc vào đời Ðông Ngụy, năm 538 TL. Ở Nhật Bản thì cho bức bích họa trong Kim đường chùa Pháp Long là nổi tiếng nhất.
    Tượng đều được vẽ hay khắc theo lời dạy ở pháp quán thứ tám trong kinh Quán Vô Lượng Thọ. Trong kinh, Phật dạy quán tưởng hai bên Phật A-di-đà có hoa sen lớn, bồ-tát Quán Âm ngồi trên tòa sen bên trái; bồ-tát Ðại Thế Chí ngồi trên tòa sen bên phải. Trong Bất Không Quyên Tác Thần Biến Chân Ngôn Kinh cũng có lời dạy này. Bồ-tát Quan Âm đứng đầu về “Bi”, biểu thị ý nghĩa dưới hóa độ chúng sinh, nên đứng bên trái. Bồ-tát Ðại Thế Chí đứng đầu về “Trí”, biểu thị ý nghĩa trên cầu bồ-đề, nên đứng bên phải.
    Ngoài ra, kinh Quán Tự Tại Bồ Tát Tam Thế Tối Thắng Tam Vương cho rằng bên trái Đức Phật A-di-đà là Quán Tự Tại, bên phải là Kim Cương Thủ.

A DI ĐÀ PHẬT


     Phạn : Amita-buddha.
    Tạng: Dpag-tu-med, Dpag-yas.
    Cũng gọi : A-di-đà Phật, A-nhị-đa Phật, A-nhị-đả Phật.
    Gọi tắt: Di-đà.
    Giáo chủ thế giới Cực Lạc ở phương Tây.
    Kinh A-di-đà do ngài Cưu-ma-la-thập dịch : "Đức Phật kia có ánh sáng vô lượng nên gọi là Phật A-di-đà". Nhưng theo kinh A-di-đà bản tiếng Phạn và kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ thì Đức Phật kia sống lâu vô lượng, ánh sáng nhiệm mầu vô biên, nên gọi là Phật Vô Lượng Thọ, Phật Vô Lượng Quang.
    Trong các kinh phiên dịch vào thời kì đầu như : Bát Chu Tam-muội, Ðại A-di-đà, Duy-ma-cật cũng chỉ có danh hiệu A-di-đà. Do đó, nên biết danh hiệu Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Quang là do đời sau căn cứ vào nghĩa gốc của danh từ ấy mà lập ra.
    Theo kinh Bình Đẳng Giác, Hậu Xuất A-di-đà Phật Kệ, kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ, Phật A-di-đà là Phật Vô Lượng Thanh Tịnh, thế giới của Phật A-di-đà gọi là thế giới Thanh tịnh, thế giới Cực Lạc.
    Theo kinh Vô Lượng Thọ, thượng, Phật A-di-đà vào kiếp quá khứ lâu xa, khi Đức Phật Tự Tại Vương trụ thế, có một vị quốc vương phát tâm vô thượng, bỏ ngôi vua, xuất gia, tên là Pháp Tạng. Tì-kheo Pháp tạng tu hành ở chổ Đức Phật Thế Tự Tại Vương, biết rõ tịnh độ của chư Phật, tư duy trải qua năm kiếp, rồi phát bốn mươi tám lời nguyền thù thắng. Sau đó không ngừng tích lũy công đức, cách nay mười kiếp, hạnh nguyện tròn đầy, thành Phật A-di-đà ở phương Tây, cách thế giới Ta-bà này 100.000 ức cõi Phật, do phước báo cảm được tịnh độ Cực Lạc. Ðến nay, Ngài vẫn còn đang thuyết pháp ở cõi ấy. Ngài là đấng giáo chủ của Tịnh độ môn, tiếp dẫn người niệm Phật vãng sinh về Tịnh độ Tây phương, nên còn gọi là Phật Tiếp Dẫn.
    Tuợng A-di-đà tam tôn, thông thường có 2 vị bồ tát Quán Thế Âm và  Ðại Thế Chí đứng hầu hai bên. Đức Phật A-di-đà cùng với hai vị Bồ tát này gọi là Tây phương tam thánh. Trong kinh luận Ðại thừa hiện còn, có tới 200 bộ nói về Đức Phật A-di-đà và các việc ở tịnh độ Cực Lạc của Ngài,
    Theo kinh Bát Chu Tam-muội, thượng, Phật A-di-đà có 32 tướng, ánh sáng chiếu suốt, trang nghiêm đẹp đẽ không ai sánh bằng. Theo lời dạy trong kinh Quán Vô Lượng Thọ, thân Phật Vô Lượng Thọ sáng như trăm nghìn ức sắc vàng Diêm-phù-đàn của cõi trời Dạ-ma. Thân Ngài cao 60 muôn ức na-do-tha hằng hà sa do-tuần. Lông trắng giữa hai đầu chân mày xoáy tròn về bên phải. Tướng lông trắng rộng gấp năm lần núi Tu-di. Mắt Ngài 2 phần đen trắng rõ ràng và lớn gấp bốn lần biển cả. Thân Ngài có 84.000 tướng. Trong mỗi tướng có vẽ đẹp. Trong mỗi vẽ đẹp có 84.000 tia sáng chiếu khắp các thế giới trong mười phương nhiếp lấy chúng sinh niệm Phật.
    Ở Tây Tạng, Đức Phật A-di-đà được phân biệt thành Đức Phật Vô Lượng Quang và Đức Phật Vô Lượng Thọ. Nếu cầu trí tuệ thì qui y Phật Vô Lượng Quang. Nếu cầu phước lạc, kéo dài tuổi thọ thì qui y Phật Vô Lượng Thọ.
    Trong Mật giáo, Phật A-di-đà tượng trưng cho Diệu quan sát trí của pháp thân Ðại Nhật Như Lai, gọi là Cam Lộ Vương. Trong mạn-đồ-la Kim cương giới, gọi là A-di-đà Như Lai Thân Thụ Dụng Trí Huệ, ngự giữa nguyệt luân ở phía Tây, thân màu vàng ròng, kiết ấn Tam-ma-địa, mật hiệu là Thanh Tịnh Kim Cương; chủng tử là (hrìh); hình tam-muội-da là hoa sen. Trong mạn-đồ-la Thai tạng giới, Ngài là Vô Lượng Thọ Như Lai, ngự ở phía Tây viện Trung Đài Bát Diệp; mật hiệu là Thanh Tịnh Kim Cương, chủng tử là (Sam); hình Tam-muội-da là hoa sen mới nở. Hình tượng tôn vị này, thân  màu vàng nhạt hoặc vàng ròng, mắt nhắm, đắp y mỏng, ngồi kiết già trên hoa sen báu, bắt ấn nhập định.

Thứ Năm, 28 tháng 7, 2016

A DI ĐÀ KINH


I. A di dà kinh,
    Phạn : Aparimitàyus-sùtra.
    Cũng gọi : A-di- đà Tam-đa-tam-Phật-tát-lâu-Phật-đàn-Quá Độ Nhân Đạo Kinh, Ðại A-di-đà Kinh.
     Kinh 2 quyển do ngài Chí khiêm dịch vào thời Ngô (222-280 TL), được xếp vào Ðại Chính Tạng tập 12.
    Đây là bản dịch khác của kinh Vô Luợng Thọ, là bộ kinh có mặt sớm nhất trong các bản dịch kinh Vô Luợng Thọ.

    II. A di dà kinh.
    Phạn : Sukhàvatyamrta-vyùha.
    Cũng gọi : Kinh Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm, Kinh Chư Phật Sở Hộ Niệm kinh Tiểu Vô Luợng Thọ, Tiểu Kinh, Tứ Chỉ Kinh.
    Dịch âm: Tốc-ca-ngõa-đê a-di-lí-đát-vĩ-dụ-ha.
    Kinh, 1 quyển được xếp vào Ðại Chính Tạng tập 12, 1 trong 3 bộ kinh Tịnh Độ.    
    Nguyên gốc kinh này được biên soạn khi tín nguỡng Phật A-di-đà thịnh hành ở bắc Ấn Độ, sau khi kinh Ðại Vô Luợng Thọ đã thành lập, tức khoảng thế kỉ thứ nhất. Sau bản Hán do ngài Cưu-ma-la-thập (Phạm: Kumàrajìva, 344-413 TL) dịch vào đời Dao Tần năm 402 TL, còn 2 bản dịch khác là :
    1. Kinh Tiểu Vô Luợng Thọ (1 quyển), do ngài Cầu-na-bạt-đà-la dịch vào đời Luu Tống, khoảng năm 454-456 TL. Bản dịch này đã bị thất lạc, hiện chỉ còn văn chú và văn khuyến tu lợi ích.
    2. Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thụ (1 quyển), do sư Huyền Trang dịch vào đời Ðuờng, năm 650, cũng đuợc xếp vào Đại Chính Tạng tập 12.
    Bản của ngài La-thập, văn dịch gọn gàng, sáng sủa, nên nguời đọc tụng rất nhiều. Nội dung kinh này nói về sự thanh tịnh trang nghiêm nơi Tịnh độ phương Tây của Đức Phật A-di-đà, chư Phật chân thành khen ngợi những người vãng sinh Tịnh độ, chư Phật ở 6 phương đến ấn chứng cho người trì danh niệm Phật. Bản dịch này làm cho tín ngưỡng Tịnh độ được minh xác và bình dị hơn trước đây.
     Kinh này có rất nhiều chú sớ, quạn trọng nhất có :
    -   A-di-đà  Nghĩa Kí (1 quyển), của ngài Trí Khải.
    -  A-di-đà Pháp Sự Tán (2 quyển),  của ngài Thiện Đạo.
    -  A-di-đà Kinh Sớ (1 quyển), của ngài Huệ Tịnh.
    -  A-di-đà Kinh Sớ (1 quyển) và A-di-đà Kinh Thông Tán Sớ (3 quyển) của ngài Khuy Cơ.
    -  A-di-đà Kinh Sớ (1 quyển) của ngài Nguyên Hiểu.
    Gần đây, do Ðại học Oxford ấn hành kinh Di-đà bản tiếng Phạn, nên ở Nhật bản nổi lên phong trào nghiên cứu kinh này.
    -  Ông Ðằng Ba Nhất Như dịch kinh A-di-đà bản Phạn sang bốn thứ tiếng : Nhật, Anh, Trung Quốc, Triều Tiên.
    -  Ông Ðịch Nguyên Vân Lai kết hợp ba bộ kinh Tịnh độ từ các bản Phạn, Tây Tạng, Nhật, Anh.
    - Ông Mộc Thôn Tú Hùng soạn The Smaller Sukhàvatì-vyùha, Description of Sukhàvatì; The Land of Bliss, collaterating Sanskrit, Tibetan, Chinese texts with commentarial foot-notes.

A DI ĐÀ ĐƯỜNG

 
    Điện thờ tôn tượng Đức Phật A-di-đà.
    Ở Trung Quốc, sự thờ phượng bắt đầu từ sư Huệ Viễn đời Đông Tấn. Sư thờ phượng Phật A-di-đà trên đài Bát-nhã trong tịnh xá ở Lô Sơn để tu pháp Niệm Phật Tam-muội. Về sau, các sư Thiện Đạo, Thừa Viễn, Pháp Chiếu đời Đường lập đạo tràng Bát-chu cho việc tịnh tu. Từ đời Tống trở đi, đạo tràng kết xã niệm Phật rất thịnh hành, gọi là A-di-đà đường. Ở Nhật Bản thì bắt đầu từ thời Nại Lương, chùa Pháp Luân ở kinh đô, chùa Pháp Hoa ở Nại Lương, đều có A-di-đà đường.

A DI ĐÀ CHÚ

   Chân ngôn của Phật A-di-đà, Đà-la-ni căn bản, biểu thị sự nội chứng, bản thệ và công đức của Vô Lượng Thọ Như Lai.
    Chân ngôn này có công năng làm cho hành giả hiện đời an ổn, tội chướng tiêu trừ, sau khi chết được vãng sinh về Tịnh Độ An Dưỡng Cực Lạc. Bài chú được đọc tụng phổ thông nhất là Đà-la-ni căn bản của Vô Lượng Thọ Như Lai trong Vô Lượng Thọ Như Lai Tu Quán Hạnh Cúng Dường Nghi Quĩ do ngài Bất Không dịch vào đời Đường.
    Ngoài ra trong Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Đắc Sinh Tịnh Độ Thần Chú do ngài Cầu-na-bạt-đà-la dịch vào thời Lưu Tống, Phật Thuyết A-di-đà Phật Căn Bản Bí Mật Thần Chú Kinh do Bồ-đề Lưu-chí dịch vào thời Bắc Ngụy, Đà-la-ni Tập Kinh do A-địa-cù-đa dịch vào đời Đường, A-di-đà Phật Thuyết Chú, mất tên người dịch, kinh Phật Thuyết Cam Lộ Đà-la-ni do ngài Thật-xoa-nan-đà dịch vào đời Đường, Trung quốc đều có ghi chép bài chú Đà-la-ni này, nhưng câu văn hơi khác nhau.

A DI

    Từ tôn xưng người thông hiểu lý Tứ đế.
    A-di vốn là tên khác của tiên nhân Asita nước Ca-tỳ-la-vệ thuộc Trung Ấn độ. Khi Đức Thích Tôn giáng sinh, Asita có đến xem tướng cho Ngài, đoán trước rằng sau này Ngài sẽ thành Phật.
    Phật Bản Hạnh Tập Kinh từ quyển 7 đến quyển 10 ghi : "Vị tiên này có đủ 5 phép thần thông, tự tại ra vào nơi hội họp của chư Thiên trên cõi trời 33".

A CHÂU ĐÀ

    Tiền thân tôn giả Ma-ha Mục-kiền-liên.
    Theo kinh Thái Tử Tu-đại-noa, thuở xưa, Mục-kiền-liên là đạo nhân A-châu-đà, gặp thái tử Tu-đại-noa (là tiền thân của Đức Thích Tôn lúc còn ở giai vị tu nhân) tại núi Đàn-đặc, có phát nguyện : "Khi nào thái tử chứng Vô thượng bồ-đề, ta sẽ làm đệ tử thông bậc nhất của ngài".

Thứ Tư, 27 tháng 7, 2016

A

I.A
    Chữ (a, âm ngắn) của mẫu tự Tất đàm, là 1 trong 12 nguyên âm của mẫu tự Tất đàm, 1 trong 42, 1 trong 50 chữ cái, là chữ A chuyển hóa lần thứ nhất trong 5 lần chuyển hóa hoặc gọi chữ A còn nguyên gốc.
    A là chữ cái đầu tiên trong 50 mẫu tự Tất đàm, đó là vì khi người ta mở miệng nói ra thành tiếng thì trong đó đã có chữ A, nếu bỏ chữ A thì không có tất cả ngôn từ, vì thế Mật giáo cho chữ A là mẹ của tất cả tiếng nói. Các chữ Tất đàm, khi mới chuyển bút viết thì phải chấm một dấu ".", chấm này gọi là chấm chữ A, dùng để hiển thị A là mẹ của tất cả các chữ. Theo đó, suy rộng ra có thể nói tất cả giáo pháp dù trong hay ngoài Mật giáo đều do chữ A sinh ra. Đại Nhật Kinh Sở 7 lại tiến thêm một bước nữa, cho chữ A là "Gốc của tất cả các pháp".
    Kinh Đại Nhật 2,6 cũng xếp loại và khen ngợi chữ A là "Vua chân ngôn" và "cốt tủy của tất cả chân ngôn".
    Nếu nói theo nghĩa chữ gốc thì chữ A có nghĩa phủ định như "vô" (không), "bất" (chẳng), "phi" (chẳng phải). Phẩm Hải Hội Bồ-tát trong Kinh Đại Phương Đẳng Đại tập 10, kinh Văn-thù-sư-lợi Vấn, thượng, cho chữ có nghĩa vô thường.
    Kinh Đại Bát Niết-bàn 8, (bản Bắc) nêu : A nghĩa là không hư hoại, không lưu chuyển. Phẩm Khẩn-na-la Thụ ký trong kinh Đại Bảo Tích 65, nêu ra các nghĩa của chữ A : Vô tác, vô biên, vô phân biệt, vô tự tính, bất khả tư nghị....v.v...
    Kinh Thủ Hộ Quốc Giới Chủ Đà-la-ni 2, nêu 7 nghĩa của chữ A tâm bồ đề, pháp môn, không hai, pháp giới, pháp giới tính, tự tại, pháp thân. Trong quyển 3 của kinh này còn nêu ra 100 nghĩa của chữ A : vô lai, vô khứ, vô hành, vô trụ, vô bản tính, vô căn bản, vô chung, vô tận.
    Phẩm Quảng Thừa trong kinh Đại Phẩm Bát-nhã 5, giải thích chữ A vốn không sinh.
Đại Nhật Kinh Sở 7, y cứ vào "cũng Không, cũng Giả, cũng Trung" trong luận Trung Quán và "Tam trí nhất tâm" trong luận Đại Trí Độ rồi theo 3 nghĩa : "Có, không, bất sinh" để giải thích lý : "Chũ A vốn không sinh".
Phẩm Trụ Tâm trong kinh Đại Nhật 1, Đại Nhật Kinh Sở 14, cho chữ A là "tâm bồ-đề thanh tịnh vốn không sinh", nghĩa là : Nếu rõ biết thật nghĩa của chữ A thì cũng biết như thật tâm mình. Bởi vì ý chí sâu xa của bộ Kinh Đại Nhật là nghiên cứu cùng tận các tướng của tâm bồ-đề. Thế nên, nói một cach đại cương thì cũng có thể cho rằng : "Tòan bộ kinh Đại Nhật đều giải thích vô nghĩa tướng của chữ A".
Ngoài ra, pháp môn tự nội chứng mà Đại Nhật Như Lai đã giảng nói trong Thai tạng giới (toàn bộ kinh Đại Nhật) chính là nói rộng về lý chữ A vốn không sinh. Cho nên có thể cho rằng : Lý Pháp thân của Đại Nhật Như Lai trong Thai tạng giới lấy chữ A này làm chủng tử. Đây là ý nghĩa mà Đại Nhật Kinh sở 7 (Đại 39, 651 hạ) ghi :"Đức Ty-lô-giá-na chỉ lấy một chữ A này làm chân ngôn". Cũng trong Đại Nhật Kinh Sở 7 cho chữ A là chủng tử của tâm bồ-đề, nghĩa là người trì tụng chữ A đều có tâm bồ-đề và lấy đó để mong cầu đạt đến Vô thượng bồ-đề.
Thông thường các tôn vị trong Mật giáo, đều có chủng tử và chân ngôn tượng trưng dẫn sinh và nhiếp trì Phật trí. Nhưng vì một phần các tôn vị không có chủng tử riêng biệt, phải lấy chữ A thay vào, nên gọi A là chủng tử chân ngôn chung.
Chữ A là chủng tử của Thai tạng giới, là chủng tử của pháp thân, là chủng tử của Phật bộ, là chủng tử của nhân chuyển hóa trong 5 lần chuyển hóa (nhân, hành, chứng, nhập, phương tiện); là chủng tử của địa đại trong 6 đại (địa, thủy, hỏa, phong, không, thức).
Trong Mật giáo quán tưởng hình viết, âm đọc và ý nghĩa của chữ A, gọi là pháp quán chữ A. Đây chính là pháp quán quan trọng nhất đối với người tu hành chân ngôn.

II. A
Chữ (a, âm dài) của mẫu chữ Tất đàm, 1 trong 12 nguyên âm, 1 trong 42 chữ cái tiếng Phạn.
Đây là chữ A biến chuyển lần thứ hai trong 5 lần chuyển hóa, tức là chữ A thêm một chấm (chấm tu hành). Chữ A biểu thị cho Tam-ma-địa của Bảo Sinh Như Lai ở phương Nam, tượng trưng cho đức tu hành. Cho nên trong 5 lần chuyển hóa, chữ A này thuộc về Nhân vị tu hành. Đây là thuyết Đông nhân phát tâm. Nếu phối hợp chữ A với bốn phương thì chữ A biểu thị môn tu hành ở phương Nam, có nghĩa tất cả pháp vắng lặng (S : Aranya). Cho nên, các nhà Tất-đàm thường gọi là chữ A vắng lặng.
Ngoài ra chữ A này còn có các nghĩa : xa lìa ngã, tự lợi lợi tha, không, tam muội, thánh giả, ít muốn, biết đủ, trong sáng, răn dạy...

TỪ ĐIỂN PHẬT HỌC HUỆ QUANG


    Bộ từ điển này có 08 tập, 6244 trang gồm :

1. Tập I : Vần A, B, C, Ch từ trang 01 đến trang 1022.
2. Tập II : Vần D, Đ, E, G, H từ trang 1025 đến trang 2091.
3. Tập III : Vần I, K, Kh, L, M, N, Ng, Ngh từ trang 2093 đến trang 3121,
4. Tập IV : Vần Nh, O, Ph, Qu, S từ trang 3123 đến trang 4019.
5. Tập V : Vần T từ trang 4021 đến trang 4990.
6. Tập VI : Vần Th từ trang 4991 đến trang 5732.
7. Tập VII : Vần Tr, U, Ư, X, Y từ trang 5733 đến trang 6244.
8. Tập VIII : Sách dẫn.
    Với mong muốn chia sẽ đến các bạn những kiến thức cơ bản của Phật giáo nên chỉ chuyển lên page những khái niệm Phật giáo gần gũi, dễ hiểu, để các bạn tiện tham khảo.
    Qua đây, xin được gởi lời cảm ơn chân thành đến Thầy Thích Minh Nhựt - Hội Bàn tay Nhân Ái, Chùa Quán Âm tại Garden Grove, California, USA đã trao tặng bộ Từ Điển Phật Học Huệ Quang vào tháng 05 năm 2013 để làm tư liệu cho page này.

Lời nói đầu.

  
    Mỗi khi đọc một đọan Kinh luận, chúng ta gặp rất nhiều thuật ngữ và pháp số chuyên biệt. Có những từ lập lại nhiều lần, trở thành quen thuộc, chúng ta ngỡ rằng đã hiểu, thật ra ta chỉ làm quen mà chưa biết rõ tường tận. Muốn hiểu rõ chúng một cách cặn kẽ, chúng ta phải tìm đọc trong các kinh sách khác hoặc các luận giải của các bậc tiền bối.
    May thay, các nhà làm từ điển Phật học đã giúp ta điều đó. Các Ngài đã rút từ các Kinh luận những ngữ nguyên, ngữ căn của từ ngữ giải thích cho ta rất rõ ràng, với những ghi chú xuất xứ cần thiết. Chẳng những thế, những dị kiến về ngữ nghĩa, học thuyết cũng được đề cập đến cho người đọc rộng thêm phần tham bác.
    Trong 80 năm gần đây, các nhà học Phật Việt Nam đã dùng quen hai quyển từ điển Phật học Trung quốc:
-   Thật Dụng Phật Học Từ Điển do Cao Quán Lô và Hà Tử Bôi chủ biên.
-   Phật học Đại Từ Điển của Đinh Phúc Bảo.
    Cuốn Thật Dụng Phật Học Từ Điển vì quá gọn nên chưa đủ. Còn cuốn Phật Học Đại Từ Điển, tuy biên soạn rất công phu, nhưng ra đời cách đây hơn 80 năm, những từ mới chưa được đưa vào.
    Nhận thấy gần đây có bộ Phật Quang Đại Từ Điển do Ủy Viên Hội Biên Tu ở Phật Quang Sơn Đài Loan gồm trên 20 vị biên soạn ròng rã trong mười năm. Bộ từ điển này có tất cả 6.984 trang, ngoài việc tham cứu các từ điển đã có, còn bổ túc những từ ngữ cập nhật hóa và sắp xếp trình bày dễ hiểu, rất tiện cho việc tra cứu đối với những người mới học Phật pháp.
    Bắt đầu từ năm 1992, chúng tôi hình thành tổ chức phiên dịch với sự tham gia của hơn 60 Tăng Ni và cư sĩ Phật tử đồng thời cung thỉnh chư Tôn Đức chứng minh để công tác được hoàn thành tốt đẹp.
    Cuối năm 1994, công việc phiên dịch hoàn thành.
    Trong quá trình làm việc, chúng tôi nhận thấy cách sắp xếp trình bày của Phật Quang Đại Từ Điển không mấy thích hợp với Phật tử Việt Nam, nên chúng tôi chỉ lấy Phật Quang Đại Từ Điển làm lam bản để biên soạn lại. Chúng tôi chỉ chọn những hạng mục cần thiết để biên soạn và thêm vào đó những hạng mục nhân danh, địa danh, tự viện, đặc ngữ Phật giáo Việt Nam để các Phật tử Việt Nam tiện tham cứu.
    Từ 1995-2001, công việc biên soạn được thực hiện với 6 lần tu chỉnh theo sự góp ý của chư vị thiện tri thức xa gần.
    Vào năm 2001, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam nhận thấy đây là một bộ từ điển có ảnh hưởng lớn và lâu dài đối với người học Phật Việt Nam nên đã thành lập một Hội đồng Thẩm định gồm 10 vị chư Tôn đức và các học giả để góp ý, hiệu chỉnh.
    Nhân đây, thay mặt Ban soạn dịch chân thành cảm tạ Tài Đoàn Pháp Nhân Văn Hóa Cơ Kim Hội tại Phật Quang Đài Loan đã hoan hỉ cho phép chúng tôi sử dụng tài liệu của bộ Phật Quang Đại Từ Điển do Tì-kheo-ni Từ Di chủ biên, Tịch Vân Đại Sư giám tu.
    Chúng tôi cũng chân thành cảm tạ chư liệt quý vị trong cũng như ngoài nước đã hết lòng tán trợ công tác phiên dịch, góp ý sữa chữa, hoặc ủng hộ tài chính trong quá trình biên tập cho tới lúc hoàn thành bộ sách.
    Vì tài liệu tham khảo còn hạn chế, vì kiến thức của Ban soạn dịch còn hạn hẹp, Bộ Từ Điển Phật Học Huệ Quang này không sao tránh khỏi sự thiếu sót. Kính mong chư vị thức giả góp ý chỉ bảo để chúng tôi sữa đổi hoàn thiện ở lần tái bản sau.

Mùa Xuân năm Quí Mùi 2003.
Thay mặt Ban soạn dịch Từ điển Phật học Huệ Quang.
TT. Thích Minh Cảnh.

Hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình

  

     ..."Vậy này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một điều gì khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một gì khác. Và này Ananda, thế nào là Tỷ-kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một điều gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác?
    Này Ananda, ở đây, Tỷ-kheo trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời; quán thọ trên các thọ... quán tâm trên tâm... quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Này Ananda, như vậy là Tỷ-kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa cho chính mình, không nương tựa một điều gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một điều gì khác.
    Này Ananda, những ai hiện nay hoặc sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một điều gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa vào một gì khác; những vị ấy, này Ananda, là những vị tối thượng trong hàng Tỷ-kheo của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi."...
Đại Tạng Kinh Việt Nam
KINH TRƯỜNG BỘ phẩm II.
Dìgha Nikàya
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt.

    Với phương châm "học hỏi để chia sẽ và chia sẽ để học hỏi", và với kiến thức còn nông cạn của mình xin được giới thiệu và chuyển đến các bạn những kiến thức cơ bản của Phật giáo thông qua bộ Từ điển Phật học HUỆ QUANG xuất bản lần thứ 2 năm 2011.
    Mong các bạn, các thân hữu đóng góp cho những khiếm khuyết trong quá trình thực hiện tâm nguyện này.
Chân thành cảm ơn.
Thân ái.