Thứ Tư, 10 tháng 8, 2016

Ác nhân


          Người bất thiện, tức là người mà 3 nghiệp thân, khẩu, ý, thường gây tạo những việc ác, nhất là không tin nhận chân lí Phật giáo.
         Theo phẩm Phương Tiện, Kinh Pháp Hoa 1, người ác ở trong đời vị lai, tuy nghe Phật nói pháp Nhất thừa, nhưng vì mê hoặc không tín thụ, phá hoại chính pháp bị đọa vào đường ác.
    Trong  Quán Niệm Pháp Môn, ngài Thiện Đạo nêu ra 5 hạng người có tính ác:
1. Hủy báng việc đúng, làm điều xằng bậy
2. Hủy báng việc chính, làm điều tà vạy.
3. Hủy báng điều phải, làm điều sai quấy.
4. Hủy báng điều thật, làm điều hư dối.
5. Hủy báng việc lành, làm điều hung dữ.

           Kinh Phạm Võng, hạ Bồ-tát Giới Nghĩa Sớ, hạ : Quở trách nghiêm khắc những người ác, gọi những người không thụ giới bồ-tát đều là người ác, là súc sinh, như gỗ đá không có tâm hiểu biết.
          Tịnh Độ giáo Nhật Bản, có thuyết cứu độ đối với người ác, như Tịnh Độ Chân tông, gọi người ác là “Ác nhân chính cơ”, chủ trương người ác là hạng căn cơ chính yếu được tiếp độ, tức là đối tượng nhiếp hóa của Phật A-di-đà.

Thứ Ba, 9 tháng 8, 2016

Ác khẩu


          Miệng nói lời thô ác, chửi rủa người khác, là 1 trong 10 tội ác.
         Theo Đại Thừa Nghĩa Chương 7, lời nói thô tục, lỗ mãng bị xem là lời ác, ác ấy từ miệng phát sinh nên gọi là ác khẩu.
         Pháp Giới Thứ Đệ Sơ Môn, thượng (Đại 46, 669 hạ) ghi : "Nói lời khiến người khác phiền não, gọi là ác khẩu".
         Theo phẩm Bồ Tát Thường Bất Khinh, Kinh Pháp Hoa 6, nếu dùng lời thô ác để chửi mắng, chê bai kẻ khác thì sẽ chịu tội báo rất lớn.

Ác hữu


          Bạn xấu chuyên xúi giục làm điều ác, điều hung dữ, điều thâm độc.
          Theo kinh Du-già 64, người ta biết được một ác hữu do 5 tướng :
          1. Không biết hổ thẹn;
          2. Có tà kiến;
          3. Lười biếng trễ nãi;
          4. Hay làm điều bậy;
          5. Tính tình khiếp nhược.
          Trong sự tích Đức Phật Thích-ca, Đề-bà-đạt-ma là một ác hữu.

Ác cơ


     Căn cơ làm những hành vi tổn hại đạo lý.
    Trong Ngu Thốc Sao, thượng, ngài Thân Loan vị Tổ khai sáng Tịnh độ Chân tông ở Nhật Bản nêu ra 7 loại ác cơ:
1. Thập ác : Sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói thêu dệt, nói lời hung ác, nói ly gián, tham dục, sân nhuế, ngu si.
2. Tứ trọng : Tăng chúng phạm 4 giới cấm trọng yếu : Sát sinh, trộm cắp, dâm dục, nói dối.
3. Phá kiến : Phá hoại lí chính đạo.
4. Phá giới : Phá cấm giới.
5. Ngũ nghịch : Giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hòa hợp tăng, làm thân Phật chảy máu.
6. Báng pháp : Phỉ báng chính pháp.
7. Xiển đề : Không có tín tâm và đoạn dứt các căn lành.

    Những người có căn cơ ác này, trong một niệm, nghe và tin bản nguyện của Phật A-di-đà mà xưng niệm danh hiệu của Ngài thì cũng được Phật A-di-đà cứu độ.    
    Giáo nghĩa của Mật tông cũng trình bày công năng cứu độ kẻ căn cơ ác.
    Theo Ðà-la-ni Tập Kinh chép, nếu ai phạm tội tứ trọng và ngũ nghịch, mà trì pháp này, đọc tụng Ðà-la-ni một biến thì gột sạch hết tất cả tội nặng căn bản.
    Theo phẩm Kim Cương Giới Đại Đạo Tràng trong kinh Nhiếp Chân Thật, thượng, nguời gây tạo nhiều ác nghiệp, gieo nhân đọa địa ngục mà tất cả các pháp khác đều không thể cứu được, duy có pháp môn vô thượng Ðại-mạn-đồ-la của Kim cương giới mới cứu được thôi.

Ác


    I. Phạn, Pàli: Pàpa.
    Cũng gọi : Bất thiện (Phạn : Akusala, Pàli : Akusala).
    Pháp bất thiện chiêu cảm quả khổ, đáng chê trách, tức là sự tạo tác của tư tưởng ác. Tính chất của ác bao quát những sự trái lí, trái phép, tổn mình hại nguời, tương ứng với các phiền não tham, sân, làm chuớng ngăn Chánh đạo, là 1 trong 3 tính : thiện, ác và vô kỷ.
    Luận Câu-xá 16 (Ðại 29, 84 trung) ghi : “Vì cái đó có thể dẫn đến quả không ưa thích, bị nguời trí chê trách. Cho nên gọi là ác hạnh”.
    Phẩm Mộng Kiến Kim Cổ Sám Hối, kinh Kim Quang Minh Tối Thắng Vương (Ðại 16, 412 trung), ghi :
    Thân tam, ngữ tứ chứng
    Ý nghiệp phục hữu tam
    Hệ phước chư hữu tình
    Vô thỉ hằng tương tục
    Do tu tam chủng hạnh
    Tạo tác thập ác nghiệp

    (Thân ba và miệng bốn
    Ý nghiệp cũng có ba
    Trói buộc loài hữu tình
    Từ xưa luôn tiếp nối
    Do ba ác hạnh này
    Tạo thành muời ác nghiệp).
   
    Muời nghiệp ác : Sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói ly gián, nói hung ác, nói thêu dệt, tham muốn, giận tức, tà kiến; thường được đề cập song song với tội ngũ nghịch là : Hại cha, hại mẹ, hại A-la-hán, phá Tăng, ác tâm làm thân Phật chảy máu.

    II. Ác.
    Chữ (ah) Tất-đàm. Là chữ A chuyển biến lần thứ tư trong 5 lần chuyển biến, tức là bên cạnh chữ A nguyên gốc, chấm thêm chấm Niết bàn, 1 trong 12 nguyên âm của mẫu tự Tất-đàm, một trong 50 chữ cái.
    Ðại Nhật Kinh Sớ 14 (Ðại 39, 724 thuợng), ghi : “Nếu chấm thêm hai chấm bên cạnh chữ A thì tức là tâm Bồ-đề trừ sạch nghiệp chuớng mà được Niết bàn”. Theo nghĩa "Ðông Nhân Phát Tâm" của ngài Thiện Vô Úy (637-735), thì chữ A 5 lần chuyển biến phối hợp với 5 Đức Phật thì chữ Ác này tương đương với Thích-ca Như Lai ở phương Bắc. Chữ này là chủng tử của bồ-tát Trừ Cái Chướng.
    Theo Ðại Nhật Kinh Sớ 10 giải thích thì chữ  ác (ah) này có nghĩa là hàng phục,  đoạn trừ.
    Theo giải thích của kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm 4, chữ Ác (ah) này có nghĩa là diệt trừ (Phạn : Astam-gamana), gột sạch và xa lìa.

Thứ Tư, 3 tháng 8, 2016

A nậu Quán âm

    Tượng đức Quán Âm cứu khổ nơi biển cả; 1 trong 33 ứng thân của Quán Thế Âm.
    Hình tượng của Bồ-tát này được tạc ngồi trên gộp đá nhìn ra biển.
    Phẩm Phổ môn, kinh Pháp Hoa 7 (Ðại 9, 57 hạ) ghi : "Hoặc trôi giạt biển lớn, gặp các nạn dữ cá rồng, do sức niệm Quán Âm, sóng không thể nhận chìm". Vì biển lớn, rồng, cá đều có nhân duyên với ao A-nậu-đạt, nên ứng thân Quán Âm cứu vớt sinh linh nơi biển khổ được gọi A-nậu Quán Âm.

A nậu đa la Tam miệu tam bồ đề

    Phạn : Anuttara-samyak-sambodhi.
    Pàli : Anuttara-sammàsambodhi.
    Dịch ý : Vô thượng chính đẳng chính giác, Vô thượng chính đẳng giác, Vô thượng chính chân đạo, Vô thượng chính biến tri.
    Nói tắt : A-nậu-tam-bồ-đề, A-nậu-bồ-đề.
    Sự giác ngộ cao nhất, trùm khắp tất cả. Trong đó A-nậu-đa-la là Vô thượng. Tam-miệu-tam-bồ-đề dịch ý là Chính biến tri, tức trí tuệ giác ngộ của Phật hàm ý  bình đẳng, viên mãn. Vì đạo giác ngộ của Phật cao nhất, nên gọi là vô thượng; trùm khắp tất cả, nên gọi là Chính biến tri. Toàn bộ nội dung của hạnh Bồ-tát Ðại thừa là để thành tựu sự giác ngộ này.
    Ngoài ra Anuttara-samyak-sambudha (A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-phật-đà) là chỉ cho người hoàn thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, nên thường dịch là "Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác Giả". Ðây là tiếng tôn xưng Đức Phật. Có thể bỏ bớt A-nậu-đa-la, chỉ nói Tam-miệu Tam-Phật-đà hoặc Tam-da Tam-phật, Tam-da Tam-phật-đà.