Phạn: Bodhi-druma, Bodhi-taru, Bbodhi-vrksa, Bodhi.
Pali: Bodhi-rukkha.
Cũng gọi: Giác thụ, Ðạo thụ, Ðạo tràng thụ, Tu duy thụ, Phật thụ.
Tên khoa học: Ficus religiosa.
Cây bồ-đề ở phía Nam thành Già-da, nước Ma-kiệt-đà, Trung Ấn Độ. Đức Thích tôn đã chứng đắc quả vị Phật ở dưới cội cây này.
Cây bồ-đề thuộc họ cây dâu, vốn sinh trưởng ở Đông Ấn Độ, là loại cây thường xanh, cao từ 3 mét trở lên; lá hình trái tim, đuôi nhọn dài, hoa ẩn trong túi hoa hình cầu, khi túi hoa chín thì có màu cam sậm, trong có quả nhỏ. Trung Quốc gọi là Bát-đa (Phạn: Asvattha), Bối-đa, A-thuyết-tha, A-phái-đa (dịch ý là Cát tường, Nguyên cát). Quả của nó gọi là Tát-bát-la (Phạn: Pippala), nên cây còn được gọi là Tát-bát-la thụ.
Cây bồ-đề nơi Phật thành đạo, trải qua các thời đại, tuy đã nhiều lần bị vua A-dục, Vương phi Ðê-xá-la-hi-đa, vua Thiết-thưởng-ca.v.v… đốn chặt nhưng vẫn đâm chồi rậm rạp tươi tốt.
Theo Ðại Sử (Mahàvamsa, XIX) bằng tiếng Pali thì con gái của vua A-dục là Tăng-già-mật-đa có lần đem nhánh cây bồ-đề này đến Tích Lan, trồng trong rừng Mahàmegha ở phía Nam thủ đô thành Anuràdhapura. Về sau, vào thế kỷ XII, khi giáo đồ Hồi giáo xâm nhập Ấn Độ, cây bồ-đề đạo tràng đã bị phá hoại một cách thảm hại, cho nên nhánh cây lại được đem từ Tích Lan trở về trồng lại ở Bồ-đề đạo tràng.
Theo Nguyên Hanh Thích Thư 2, vào thời Lưu Tống, Nam triều, có vị tăng ở Trung Ấn Độ là Cầu-na-bạt-đà-la đem cây bồ-đề đến trồng ở Quảng Châu, Trung Quốc. Không bao lâu, ngài Ðạo Thúy lại chiết nhánh cây này đến trồng ở núi Thiên Thai. Vào đời Tống năm 1190, vị tăng người Nhật Bản là Vinh Tây lại đem nhánh cây ấy về trồng ở Nhật Bản.
Trong kinh có nói rõ tên của 7 cây bồ-đề của 7 Đức Phật thời quá khứ, như cây Ba-ba-la (Phạn: Pàtalì) của Đức Phật Tì-bà-thi, cây Phân-đà-lợi (Phạn: Pundarìka) của Đức Phật Thi Khí, cây Sa-la (Phạn: Sàla) của Đức Phật Tì-xá-bà, cây Thi-lị-sa (Phạn: Sirìsa) của Đức Phật Câu-lâu-tôn, cây Ô-tạm-bà-la (Phạn: Udumbara) của Đức Phật Câu-na-hàm, cây Ni-câu-luật (Phạn: Nigrodha) của Đức Phật Ca-diếp, cây Bát-đa (Phạn: Asvattha) của Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, và đời vị lai khi bồ-tát Di-lặc hạ sinh thành Phật, thì tên cây bồ-đề của ngài sẽ là Na-già (Phạn: Nàgapurpa, cây Long hoa).
Theo kinh A-súc Phật Quốc, thượng, kinh Vô Lượng Thọ, nói về tịnh độ của Đức Phật A-súc, Đức Phật A-di-đà, cũng nói mỗi vị đều có riêng cây đạo tràng.
Ngoài ra còn có một loại cây bồ-đề cao lớn, tên khoa học là Tilia migueliana, thuộc họ cây bồ-đề, cao từ 12 đến 15 mét, lá không giống cây tát-bát-la, đuôi không nhọn, rìa lá có hình sóng, quả màu đen, có thể dùng làm chuỗi.
Tương truyền vào đời Lương, Nam triều, có vị tăng Trí Dược đem cây bồ-đề từ Thiên Trúc đến trồng ở Việt Đông, hạt của cây bồ-đề này bên ngoài có một vòng tròn lớn, đường vân như mây, những chấm nhỏ như sao, gọi là bồ-đề tinh nguyệt, cũng có thể dùng làm chuỗi. Ngày nay, tự viện nào cũng có trồng cây bồ-đề, là họ hàng với cây tát-bát-la nơi Ðức Thế Tôn thành đạo.